Tổng quan về cây cà phê tại Việt Nam

Lịch sử hình thành và phát triển của cà phê ở Việt Nam

  • Lần đầu tiên cà phê được đưa vào Việt Nam vào năm 1875, giống Arabica được người Pháp mang từ đảo Bourbon sang trồng ở phía Bắc sau đó lan ra các tỉnh miền Trung như Quảng Trị, Bố Trạch, … Sau thu hoạch chế biến dưới thương hiệu “Arabica du Tonkin”, cà phê được nhập khẩu về Pháp. Sau khi chiếm nước ta thực dân Pháp thành lập các đồn điền cà phê như Chinê, Xuân Mai, Sơn Tây chúng canh tác theo phương thức du canh du cư nên năng suất thấp giảm từ 400 – 500 kg/ha những năm đầu xuống còn 100 – 150 kg/ha khi càng về sau. Để cải thiện tình hình, Pháp du nhập vào nước ta hai giống mới là cà phê vối (C. robusta) và cà phê mít ( C. mitcharichia) vào năm 1908 để thay thế, các đồn điền mới lại mọc lên ở phía Bắc như ở Hà Tĩnh (1910), Yên Mỹ (1911, Thanh Hoá), Nghĩa Đàn (1915, Nghệ An). Thời điểm lớn nhất (1946 – 1966) đạt 13.000 ha
  • Năm 1925, lần đầu tiên được trồng ở Tây Nguyên, sau giải phóng diện tích cà phê cả nước khoảng 20.000 ha, nhờ sự hỗ trợ vốn từ quốc tế, cây cà phê dần được chú trọng, đến năm 1980 diện tích đạt 23.000 ha, xuất khẩu trên 6000 tấn. Bản kế hoạch ban đầu được xây dựng năm 1980 đặt mục tiêu cho ngành cà phê Việt Nam có khoảng 180 nghìn ha với sản lượng 200 nghìn tấn. Sau đó, bản kế hoạch này đã nhiều lần sửa đổi. Các con số cao nhất dừng lại ở mức 350 nghìn ha với sản lượng 450 nghìn tấn (VICOFA, 2002).
  • Trận sương muối năm 1994 ở Brasil đã phá huỷ phần lớn diện tích cà phê ở nước này, cộng hưởng đợt hạn hán kéo dài năm 1997 đã làm nguồn cung trên toàn thế giới sụp giảm mạnh, giá tăng đột biến đã khích lệ mở rộng diện tích cà phê ở Việt Nam, đầu tư kỹ thuật canh tác thâm canh, chuyên canh,… nhờ đó diện tích và sản lượng tăng nhanh, trung bình
  • 23.9%/năm, đưa tổng diện tích cây cà phê năm 2000 lên đến 516,7 nghìn ha, chiếm 4,14% tổng diện tích cây trồng của Việt Nam, đứng thứ ba chỉ sau hai loại cây lương thực chủ lực là lúa (chiếm 61,4%) và ngô (chiếm 5,7%). Trong thập kỷ 90 thế kỷ XX, sản lượng tăng lên trên 20%/năm (và các năm 1994, 1995, 1996 sản lượng tăng thậm chí còn cao hơn với tỷ lệ lần lượt là 48,5%, 45,8% và 33%). Năm 2000, Việt Nam có khoảng 520 nghìn ha cà phê, tổng sản lượng đạt 800 nghìn tấn. Nếu so với năm 1980, diện tích cà phê của Việt Nam năm 2000 đã tăng gấp 23 lần và sản lượng tăng gấp 83 lần. Mức sản lượng và diện tích vượt xa mọi kế hoạch trước đó và suy đoán của các chuyên gia trong nước và Quốc tế. Cho đến nay sản lượng cà phê cả nước chiếm 8% sản lượng nông nghiệp, chiếm 25% giá trị xuất khẩu và là nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới với hai tỉnh có diện tích canh tác lớn nhất là ĐăkLăc và Gia Lai, mang lại việc làm ổn định, thu nhập cao cho hàng triệu người. Góp phần ổn định kinh tế xã hội ở những vùng xa xôi hẻo lánh, dân tộc ít người

Phân loại Robusta và Arabica

Đặc điểm 

Robusta

Arabica 

Năm được phát hiện

1895

1753

Thời gian kết trái

10-11 tháng

9 tháng

Thời điểm ra hoa

Không cố định

Sau mùa mưa

Hệ thống rễ

Rễ nông

Rễ sâu

Nhiệt độ lý tưởng

24-30 độ C

15 đến 20 độ C

Lượng mưa lý tưởng

2000-3000mm

1500-2000mm

Độ cao lý tưởng

0-700m

1000-2000m

Hàm lượng caffeine

1,7-4,0%

0,8-1,4%

Hình dáng

Tròn, rãnh cà phê thẳng

Thon dài, rãnh cà phê cong

Hương

Caramel và chocolate

Đa dạng

Vị

Đắng dịu, ngọt

Chua thanh, ngọt

Ứng dụng

Pha cà phê phin, hòa tan..

Pha máy, cà phê đặc sản

Có hai loại cà phê phổ biến hiện nay là Arabica và Robusta. Trong dòng Arabica có các loại phổ biến là Catimor, Moka, Typica, Bourbon.

Các loại cà phê được trồng ở Việt Nam

Cà phê Arabica

Cà phê Arabica (hay còn gọi là cà phê chè) loại cà phê này có hạt hơi dài, được trồng tại Lâm Đồng, ở độ cao từ 800 mét trở lên so với mực nước biển, nhưng thơm ngon nhất phải từ 1300 – 1500 mét.

Trong dòng Arabica có các loại phổ biến là Catimor, Moka, Typica, Bourbon. Cà phê Moka có mùi thơm nhẹ, vị nhạt. Cà phê Catimor có mùi thơm nồng nàn, vị chua nhẹ.

Cà phê Robusta 

Cà phê Robusta (hay còn gọi là cà phê vối), được trồng chủ yếu ở vùng thổ nhưỡng Tây Nguyên Việt Nam – đặc biệt là vùng đất bazan (Gia lai, Đắk Lắk) với độ cao dưới 600m.

Hạt cà phê Robusta khá nhỏ, có mùi thơm dịu, được sấy trực tiếp chứ không lên men nên có vị đắng gắt, độ cafein cao, nước có màu nâu sánh, đậm đặc, phù hợp với khẩu vị người Việt Nam.

Cà phê Culi

Cà phê culi của nước ta có hạt tròn to, bóng, đặc biệt so với các loại cafe khác là nó chỉ có một hạt duy nhất trong một trái. Cà phê culi vị đắng ngắt, hương thơm quyến rũ, hàm lượng cafein cao, nước màu đen sánh.

Cà phê Cherry

Cà phê Cherry (hay còn gọi là cà phê mít), được trồng ở vùng Cao Nguyên nước ta và có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt, cho năng suất cao. Cà phê Cherry gồm 2 loại chính là Liberica và Exelsa, hạt cà phê có màu vàng, sáng bóng, mùi hương thoang thoảng khi pha và có vị chua nhẹ, tạo ra một cảm hứng thư giãn dễ chịu.

Cà phê Moka

Cà phê Moka là một trong các loại cà phê khó trồng nhất tại Việt Nam, bởi khả năng chống lại sâu bệnh thấp, đòi hỏi quy trình chăm sóc tỉ mỉ, loại này thường được trồng tại Đà Lạt, Lâm Đồng.

Do quy trình trồng trọt khó khăn nên đây được xem là một loại cafe hiếm, giá thành cao hơn so với các loại khác. Cà phê Moka trở thành một món quà đặt biệt dành tặng nhau của những người sành cà phê.

Bạn có thấy bài viết này hữu ích không?