TỔNG QUAN VỀ CÀ PHÊ INDONESIA
STT | Đặc điểm | Nội dung |
1 | Lịch sử |
Lịch sử của cây cà phê được khởi đầu từ Ethiopia sau đó đến cảng Mocha thuộc Yemen rồi theo đường biển đến Indonesia và trở về châu Âu, châu Mỹ… Như vậy Indonesia là một trong những nước canh tác cây cà phê rất sớm.
Làm rõ cho điều này chúng ta sẽ quay lại từ thế kỷ 16, lúc bấy giờ Hà Lan là một đế quốc thống trị thương mại toàn cầu với rất nhiều thuộc địa từ đông sang tây. Nhờ sức mạnh hải quân tăng lên nhanh chóng từ cuối thế kỷ 16, Hà Lan đã làm chủ các con đường hàng hải trong nửa sau thế kỷ 17. Họ là bá chủ của biển khơi suốt thời gian này. Và Indonesia là một thuộc địa lớn tại châu Á, thuộc bộ phận Đông Ấn, Chính vì vậy, thông qua các chuyến hải trình cây cà phê đã có mặt tại Indonesia khá sớm trước các quốc gia khác.
|
2 | Cuộc du nhập của cà phê Indonesia |
Thống đốc Hà Lan ở Malabar (Ấn Độ) đã gửi một cây cà phê từ Yemen (Giống Arabica) cho Thống đốc Hà Lan Batavia (nay là Jakarta – Indonesia) vào năm 1696. Các cây cà phê đầu tiên này bị chết do ngập lụt ở Batavia. Lô cây giống thứ hai đã được gửi vào năm 1699 được trồng thành công và là dấu mốc cho sự phát triển của cây cà phê ở Indonesia. Vào năm 1719 cà phê từ Indonesia đã có mặt tại Châu Âu với cái tên “cà phê Java”. Sự thành công này không chỉ tại Indonesia mà có ảnh hưởng to lớn đến sản xuất cà phê toàn cầu. Kể từ đó tên Java và Sumatra – đã trở thành đại diện cho cà phê với chất vị hảo hạng trong nhiều thế kỷ qua.
|
3 | Mùa vụ | Vụ mùa chính hàng năm từ đầu tháng 4 năm trước đến hết tháng 3 năm sau (Apr-Mar), nhưng có một số cà phê Robusta, chiếm khoảng gần 15%, là từ đầu tháng 7 năm trước đến hết tháng 6 năm sau (Jul-Jun) và khoảng 5% Arabica từ tháng 10 năm trước đến hết tháng 9 năm sau (Oct-Sep). |
4 | Năng suất | Năng suất cà phê ở Indonesia dao động từ 0,7 đến 1,0 tấn/ha. Hầu như tất cả khoảng 1,25 triệu ha diện tích trồng cà phê đều được các nông hộ nhỏ chăm sóc bằng phương pháp trồng truyền thống và hạn chế sử dụng phân bón. Nhiều cây cà phê đã già cỗi, có cây trồng cách đây hơn chục năm. |
5 | Sản lượng niên vụ 2023/24 | Sản lượng cà phê của Indonesia niên vụ 2023-2024 ước đạt 9,7 triệu bao loại 60 kg, mức thấp nhất kể từ niên vụ 2011-2012. Phó chủ tịch Hiệp hội các nhà xuất khẩu cà phê Indonesia, Pranoto Soenarto cho biết: không thể tránh khỏi việc giảm sản lượng cà phê do thời tiết khắc nghiệt và các yếu tố khác như sâu bệnh. |
6 | Diện tích | Tỷ trọng sản xuất cà phê của Indonesia xếp thứ 3 thế giới, chủ yếu là Robusta chiếm hơn 70% trên tổng diện tích là 1,340 triệu ha |
7 | Vùng trồng | Tỷ trọng sản xuất cà phê của Indonesia xếp thứ 3 thế giới, chủ yếu là Robusta chiếm hơn 70% trên tổng diện tích là 1,340 triệu ha. Được trồng nhiều ở đảo Java và vùng Lampung của đảo Sumatra. |
8 | Sản xuất |
Việc sản xuất cà phê tại Indonesia phụ thuộc nhiều vào lượng mưa và điều kiện thời tiết. Quá nhiều mưa hoặc quá ít mưa trong giai đoạn ra hoa đều có thể khiến hoa rụng trước khi hình thành quả mọng, dẫn đến năng suất thấp hơn. Trước đó trong khoảng thời gian 2020 tới 2022 cùng 5 tháng đầu năm 2023, mưa nhiều do ảnh hưởng của La Nina đã khiến sản lượng cà phê tại Indonesia sụt giảm. Ngoài ra, phần lớn trong khoảng 1,25 triệu ha đồn điền cà phê của Indonesia được chăm sóc bởi các hộ nông dân nhỏ - những người sử dụng phương pháp trồng truyền thống và hạn chế phân bón. Hầu hết cà phê Indonesia được thu hái, lựa chọ bằng tay từ quy mô gia đình đến hợp tác xã. Hầu hết nông dân về Sulawesi, Sumatra, Flores, và Papua sử dụng phương pháp chế biến “Giling Basah” (Một phương pháp chế biến ướt truyền thống). Trong kỹ thuật này, người nông dân se xay xát cà phê trong một máy xay thủ công được gọi là “Luwak”. Các hạt cà phê, vẫn còn được bọc bởi một lớp chất nhầy sẽ được ủ trong vòng một ngày, sau đó mang cà phê rữa sạch, phơi khô.
|
9 | Các giống cà phê |
* Cà phê Java
Tây Java là vùng cà phê sớm nhất thuộc VOC từ khi người Hà Lan bắt đầu trồng trọt và xuất khẩu cà phê trên đảo Java từ thế kỷ 17. Sản xuất cà phê Arabica của Java tập trung tại Ijen Plateau – cực đông của Java trên độ cao hơn 1.400 mét.
* Sản xuất cà phê ở Indonesia
Hầu hết cà phê Indonesia được thu hái, lựa chọ bằng tay từ quy mô gia đình đến hợp tác xã. Hầu hết nông dân về Sulawesi, Sumatra, Flores, và Papua sử dụng phương pháp chế biến “Giling Basah” (Một phương pháp chế biến ướt truyền thống). Trong kỹ thuật này, người nông dân se xay xát cà phê trong một máy xay thủ công được gọi là “Luwak”. Các hạt cà phê, vẫn còn được bọc bởi một lớp chất nhầy sẽ được ủ trong vòng một ngày, sau đó mang cà phê rữa sạch, phơi khô.
* Cà phê chồn của Indonesia – Specialty Coffees Indonesia
Ngoài việc là một gia đóng góp phần lớn sản lượng cà phê thế giới, Indonesia còn nổi tiếng với các loại Specialty Coffee. Nổi tiếng nhất trong số này là cà phê Luwak (Kopi Luwak), cà phê Toraja, cà phê Aceh và cà phê Mandailing.
Trong số này cà phê Luwak – có thể là loại nổi tiếng nhất đồng thời cũng có hương vị độc đáo nhất. Cũng như cà phê Chồn của Việt Nam, Những con chồn hoang dã của Indonesia chỉ chọn những quả cà phê chín để ăn, hạt cà phê thải ra theo phân. Do quá trình lên men đặc biệt này diển ra trong da dày của chồn với các loại Enzime động vật phức tạp đã làm cho loại cà phê này có một hương vị phong phú hơn.
|